Hình ảnh hiếm về những chiếc xe gắn máy tại Miền Nam trước những năm 1975 _ HCNX

   

Ngoài những chiếc xe, ô tô thì xe gắn máy là phương tiện di chuyển chiếm đa số tại Miền Nam Việt Nam trước những năm 1975. Bài này xin được chia sẻ về những hình ảnh chiếc xe gắn máy quen thuộc của người dân miền Nam.

Hai thiếu nữ mặc tà áo dài truyền thống đèo nhau trên chiếc xe gắn máy

Nhắc đến xe gắn máy thì chắc hẳn nhiều người dân trước đây đều biết đến xe Mobylette. Vào thời Pháp thuộc, hãng Motobécane của Pháp chế tạo ra những chiếc Mobylette được cung cấp phổ biến tại thị trường Việt Nam. Xe Mobylette ở Việt Nam có 2 loại Mobylette vàng và Mobylette xanh. Cả hai đều sử dụng động cơ 49,99cc được xếp vào loại veslomoteur không cần bằng lái. Chiếc Mobylette vàng có kiểu dáng nhỏ hơn và có ống giảm xóc phía trước, còn chiếc Mobylette xanh có kiểu dáng lớn hơn, nặng hơn và có ống giảm xóc cả bánh trước lẫn bánh sau nên có giá thành cao hơn.

 
Mẫu xe Mobylette vàng 1956

Sau nhiều thời gian phát triển xe Mobylette vẫn không thay đổi quá nhiều về kiểu dáng và kết cấu. Vào thập niên năm 50 của thế kỷ 20 thân xe là những thanh ống tuýp được hàn lại với nhau. Một thập kỷ sau thì thân xe lại được thay thế bằng tôn ép. Màu sắc của xe cũng không thay đổi quá nhiều. Có lúc màu sắc của chiếc Mobylette vàng bị đổi sang màu xám.

 
Mẫu xe Mobylette vàng 1967

Xe Mobylette được chế tạo nhắm vào yếu tố dễ sử dụng không chú trọng nhiều vào ngoại hình. Xe không cần phải sang số mà dùng embrayage automatique, vặn ga lớn thì xe chạy nhanh, vặn ga nhỏ thì xe chạy chậm và dựng lại y như những chiếc xe máy tay ga bây giờ vậy. Khi muốn nổ máy thì chỉ cần đạp cho nhanh là xe nổ máy. Đôi lúc đạp mệt nghỉ xe không nổ là do mình không gạt cái chốt ở đĩa dây couroi ăn vào động cơ.

Mobylette xanh
Người ba chở 2 đứa con đi trên đường phố Saigon

SNếu có khi nào trong lúc bạn đạp xe đạp rồi nghĩ bụng sao không gắn một cái động cơ nhỏ lên xe đạp để khỏi phải đạp thì ý nghĩ đó đã có người nghĩ đến và chế tạo ra chiếc Vélosolex.. Chiếc Vélosolex, một chiếc xe đạp có gắn động cơ lên bánh trước. Động cơ này làm lăn như một cục đá tròn phía dưới. Khi người lái xe kéo cái cần trước mặt thì cục đá dở hổng lên ra khỏi bánh trước và bạn có thể thoải mái đạp xe đi như một chiếc xe đạp bình thường. Khi đạp đến một tốc độ nào đó, hạ cần xuống thì tốc độ của của xe sẽ làm cho động cơ nổ máy kéo chiếc xe đi bằng bánh trước. Khi xe đã chạy ngon trớn thì người lái có thể rút chân lên miếng để chân nhỏ ở giữa xe mà ngồi một cách thoải mái. Từ một ý kiến rất giản dị phát xuất giữa thế kỷ 20, xe Vélosolex vẫn còn tồn tại qua đến đầu thế kỷ 21.

 
 

Vì cách sử dụng giản dị, trọng lượng nhẹ nhàng nên các xe Mobylette, Vélosolex thông dụng trong giới sinh viên, học sinh và phái nữ.

Phụ nữ ưu tiên chọn chiếc xe này bởi vì gọn nhẹ dễ sử dụng
Velosolex được chụp vào năm 2001

Cao cấp hơn thì có các dòng xe Scooter của Ý: Vespa, Lambretta. Các xe scooter này vì lòng máy lớn hơn 50cc, nhỏ nhất 125 cc hoặc 150cc có khi lên đến 200 cc tùy theo kiểu. Vì phân khối lớn nên xe không được xếp vào loại vélomoteur và người sử dụng phải có bằng lái, trên 18 tuổi. Mẫu xe Vespa từ trước đến giờ vẫn không hề thay đổi là mấy, thân xe vẫn được làm bằng tôn ép. Có lẽ vì thế nên làm hình tròn như quả trứng để chịu lực tốt hơn. Động cơ xe được đặt ở chỗ phình bên phải, còn bên trái được dành để chứa đồ. Khi chạy, xe Vespa hơi nghiêng về bên phải vì bên này có trọng lượng nặng hơn.

 
Mẫu xe Vespa đến nay vẫn còn thấy vài ba con trên đường phố

Xe Lambretta có bề ngoài trông giống mẫu xe Vespa nhưng lại có cấu tạo khác nhau. Khung xe được làm từ những ống sắt hàn lại với nhau, động cơ chính được đặt ở giữa khung và che chắn bên ngoài bởi một lớp vỏ sắt. Ban đầu xe có đường nét cong mềm mại vào những năm đầu thập niên 60, nhưng sang những năm đầu thập niên 70 thì xe đổi sang kiểu dáng thắng để hợp với mốt thời gian ngày đó. Cả hai xe đều sang số bằng tay, bóp embrayage vào và vặn để đổi số.

Mẫu xe Lambretta 1962
Mẫu xe Lambretta 1966

Từ cuối thập niên 1950, Miền Nam cũng nhập cảng các loại xe gắn máy của Đức như Goebel, Sachs, Puch. Với đặc trưng riêng là bình xăng đắt trước người lại, sang số bằng tay, có ống giảm xóc cả trước lẫn sau sở hữu động cơ dưới 50 cc nên được xếp vào loại vélomoteur, không cần bằng lái. Mỗi hãng xe lại có những đặc điểm riêng khác nhau như máy xe Puch luôn được bóc trong lớp vỏ bằng nhôm. có quạt làm mát.

 
Mẫu xe Goebel 1965

Nhờ vậy xe Push sở hữu lợi thế ngay cả khi dừng đèn đỏ, động cơ vẫn được làm mát. Vì là xe có sang số nên tuy chỉ có 50cc nhưng xe gắn máy của Đức có sức kéo mạnh mẽ hơn các dòng xe Mobylette ở số 1 và 2 nên được sử dụng nhiều để kéo xe lôi và có thể kéo thêm 4-5 hành khác và hàng hóa phía sau. Hãng Sách và Push đến nay vẫn còn tồn tại.

Mẫu xe Puch 1964

Như thế có lợi điểm là máy xe được làm mát ngay cả khi ngừng đèn đỏ. Vì là xe có sang số nên tuy chỉ có 50cc, xe gắn máy Đức có sức kéo mạnh hơn các xe Mobylette ở số 1, 2, nên cũng được dùng để kéo xe lôi, có thể kéo được thêm được bốn năm hành khách và hàng hóa phía sau. Hãng Puch và Sachs ngày nay vẫn còn tồn tại.

Một mẫu xe Sachs 1961
Fips, máy Sachs, 1955

Vào khoảng 1965 thì thấy nhắc đến tên Honda, với một số kiểu xe mới lạ xuất hiện. Một số xe Honda đầu tiên do người Mỹ mua đem sang Việt Nam để đi làm việc rồi khi họ về nước thì để lại, lọt ra ngoài thị trường người Việt mua được. Một trong những công dụng của xe Honda là các phi công Mỹ dùng để di chuyển giữa chỗ đậu phi cơ và doanh trại. Từ doanh trại ra chỗ đậu thường xa, đi bộ cũng mất vài phút đến vài chục phút. Có xe Honda phóng thì thu ngắn thời gian nhất là khi có báo động thì phóng xe Honda ra máy bay nhanh hơn là chạy bộ.

Xe Honda S90 có lẽ là chiếc được ưa chuộng nhất trong số các xe Honda trước 1965 vì kiểu đẹp và máy mạnh, tiếng nổ ròn. Các kiểu xe kia là C110, S65 (thường được gọi là S50), P50, C50. Xe P50 có cấu tạo đặc biệt với máy nằm ở sát bánh sau và truyền động thẳng vào bánh chứ không qua dây xích. Cách đặt máy này có lợi là khỏi bị mất lực khi truyền qua dây xích và giảm bớt số bộ phận nhưng có khuyết điểm là xe dễ bị mất thăng bằng vì đầu nhẹ, đuôi nặng. Lại thêm khi đi xuống ổ gà vì không có ống nhún nên sức va chạm có thể làm vỡ răng cưa ở vành bánh xe.

 
 

Xe Honda dame C50 trước 1965 có chiếc đã có bộ đề bằng điện, khỏi cần đạp. Trong khi chiếc Honda dame nhập cảng hàng loạt sau này phải đạp máy nổ bằng chân.

Honda S90 1967 bên phải hình ảnh.
Honda S65 1964 – màu đen phía sau.
Honda C110 1964
Honda P50, 1964

Chiếc xe Honda được chính thức nhập cảng để bán cho người tiêu thụ là xe Honda Dame năm 1965. Hãng Honda thì gọi là kiểu C50, nhưng mọi người thường gọi là Honda Dame. Có Honda Dame nhưng không ai gọi Honda Homme, mà gọi là Honda đàn ông. Những chiếc xe Honda Dame đầu tiên xuất hiện tại Sài Gòn thu hút được sự chú ý của người đi đường. Những ngày đầu tiên xe bán ra ngoài, trên các nẻo đường phố người ta nhìn thấy các chiếc xe Honda Dame màu đỏ hay xanh lá cây nhạt. Có người bị tắt máy xe, hý hoáy nhìn xuống chân vì chưa quen với cách sang số bằng chân.

Sang lộn số có thể làm xe tắt máy. Khi thấy có một số người dắt xe Honda đi bên đường, có người nói hãng Motobécane của Mobilette thuê người dắt xe Honda Dame đi khắp các đường phố để người dân thấy xe Nhật dở, bị chết máy hoài, sợ không dám mua. Không biết là có đúng hay không. Một số người lúc đó nói là hàng Nhật không bền, chỉ vài năm là hỏng và tiên đoán rằng chừng năm mười nữa thì các xe gắn máy Pháp, Đức vẫn còn chạy, còn xe Nhật thì lúc đó vứt đi. Những người đó có lẽ căn cứ vào phẩm chất hàng hóa của Nhật trước thập niên 1960. Nhưng qua thập niên 1960, các hãng xe gắn máy Nhật đã trải qua những năm cạnh tranh khốc liệt trong nước.

 

Vào đầu thập niên 1960, nhiều hãng xe gắn máy ào ạt ra đời tại Nhật, cuối cùng theo luật thư hùng đào thải chỉ có những hãng có khả năng cải tiến mới sống còn. Lúc xe Nhật sang Việt Nam cũng là lúc các hãng xe gắn máy Nhật bắt đầu tung ra thế giới với nhiều cải tiến làm cho phẩm chất xe Nhật vượt hẳn các xe Tây phương.

 
Honda Dame C50 1965

Xe Honda Dame được làm để cho phái nữ đi nên dùng ambrayage tự động, khi sang số chân không cần phải bóp embrayage tay mà chỉ cần giảm ga. Các hiệu xe Suzuki Dame, Yamaha Dame cũng giống thế. Còn các xe gắn máy Nhật kiểu đàn ông được vẽ kiểu giống như những chiếc mô tô phân khối lớn ở chỗ không có pédale mà có cần đạp cho nổ máy, hai bên có thanh ngang để chân, bên phải là thắng chân, bên trái là cần sang số, embrayage tay trái, thắng trước tay phải, bình xăng phía trước.

Các xe này còn giống mô tô ở chỗ hai bên bình xăng có hai miếng cao su để đầu gối áp vào cho êm. Điều đáng kể là yên xe thấp vừa với chiều cao người Á Châu khiến cho việc leo lên xe, chống xe dễ dàng hơn khi sử dụng các xe gắn máy Tây phương. Tay ga vặn nhẹ nhàng chứ không nặng như xe Tây phương. Máy đạp nhẹ nhàng và dễ nổ. Nói tóm lại, các nhà chế tạo Nhật khiến cho các chiếc xe gắn máy sử dụng dễ dàng, tiện nghi hơn khiến cho người dùng thấy rất thoải mái khi đi xe.

Sau chiếc xe Honda Dame là sự xuất hiện của Honda đàn ông 66 (SS50). SS là chữ viết tắt của Super Sport. Chiếc Honda 66 xuất hiện vào năm 1966, với màu đỏ hay đen, tay lái ngắn ngủn để người lái thu hẹp khoảng cách hai tay, giảm tiết diện cản gió, xe không có đèn signal, hộp số có năm số và có thể đạt đến tốc độ tối đa đáng nể là 90km/giờ đối với một chiếc xe máy 50 cc. Đó là một chiếc xe được vẽ kiểu với các đặc tính của xe đua. Tuy nhiên chiếc xe này không tiện dụng trong thành phố vì tay lái quá ngắn nên khó điều khiển. Sang năm 1967, Honda sửa lại kiểu xe cho tay lái rộng hơn, hộp số có bốn số, sơn đen hoặc đỏ, có đèn signal, ống nhún trước có bọc cao su, tốc độ tối đa 90k/giờ.

 

Kiểu xe 67 (SS50) đã đi vào lịch sử vì máy mạnh, chạy nhanh, được nhiều người ưa chuộng và có lẽ là được sử dụng nhiều nhất tại miền Nam cùng với xe Honda Dame. Về sau Honda có ra các kiểu khác nhưng Honda 67 vẫn được nhiều người biết đến nhất. Vì máy mạnh nên chiếc Honda 67 được dùng để kéo xe lôi thay cho các hiệu xe Đức trước đây.

 
Honda SS50 1966, tay lái original
Honda SS50 1966, tay lái 67
Honda SS50 1967

Cả tứ đại gia của làng xe gắn máy Nhật, Honda, Yamaha, Suzuki, Kawasaki đều có mặt tại miền Nam lúc đó. Hãng Suzuki tung ra kiểu xe nam M15 và M12 và xe Suzuki Dame, M31. Hai kiểu xe nam đại khái giống nhau, dùng cùng một động cơ nhưng kiểu thể thao có ống pô vắt cao và vè trước ngắn để trông có vẻ thể thao hơn.

Suzuki M15 1967
Suzuki Dame M31 1967
Suzuki Dame M31 1967
Bạn đã lãnh thẻ cử tri chưa?

Hãng Yamaha có hai kiểu xe đàn ông, trong đó có kiểu YF5, và một kiểu Yamaha Dame. Xe Yamaha đàn ông kiểu đẹp, nhiều bộ phận xi bóng loáng. Yamaha Dame sơn màu xanh da trời, với đường cong dịu dàng, trông rất mỹ thuật. Các xe Yamaha xem ra không được ưa chuộng bằng Honda vì máy không mạnh bằng.

 
 
Yamaha nam kiểu thể thao YF50, 1967
Yamaha nam kiểu thể thao YF50, 1967
Yamaha nam kiểu thể thao YF50, 1967
Yamaha nam kiểu thể thao YF50, 1967
Yamaha nam kiểu thể thao YF50, 1967
Yamaha nam kiểu thể thao YF50, 1967
Yamaha Dame U5 1966

Xe Suzuki Dame và Yamaha Dame đèn trước thấp hơn xe Honda Dame, trông vẻ nhu mì thích hợp với các cô mặc áo dài.

Kawasaki là hãng nhỏ nhất trong các hãng xe Nhật lúc đó, chỉ đưa sang một kiểu xe đàn ông. Xe Kawasaki chạy tuy tốt nhưng bị chê là nặng và máy yếu. Xe Kawasaki đem sang Việt Nam là kiểu dùng sườn của xe 80 cc, thay vào đó bằng động cơ 50 cc để được xếp vào loại vélomoteur, không cần bằng lái.

Kawasaki M10 1966